Tên di sản : Từ đường họ Lương (thờ Lương Như Bính)
Tỉnh/Thành phố : Thanh Hóa
Loại di tích :
Di tích lịch sử
Sô quyết định : Số 3250/QĐ-UBND
Giới thiệu
Trước đây ngôi nhà có kiến trúc gỗ 7 gian, kẻ chuyền chồng rường. Từ năm 1963 do hoàn cảnh tự nhiên, 3 gian đã bị xuống cấp và bị tháo gỡ, giờ đây chỉ còn 4 gian còn giữ nguyên được phong cách kiến trúc truyền thống. Mỗi gian rộng là 2,44m, dài 5,4m. Vì của từng gian là hệ thống cột cái và cột quân, diện tích của từ đường có chiều rộng, dài là 5,5m x 7,89m. Các vì không trốn cột như thường thấy mà cùng những mảng điêu khắc hình cá, cúc, trúc, mai và những bức xuân hoa ở hai đầu bì được chạm thủng và chạm bong, nên đã tạo được sự phối hợp giữa không gian và ánh sáng bên trong rất hiệu quả. Đồ thờ còn nhiều hiện vật có giá trị về lịch sử và mỹ thuật, còn giữ nguyên trạng ban đầu vốn có, không bổ sung làm mới như thường thấy nên đã tạo được cảm giác linh thiêng, trang trọng trong không gian từ đường.
Các câu đối đều thể hiện về tinh thần học vấn, phản ánh những phương châm ứng xử xã hội, nêu cao công trạng của các vị tiên tổ. Bức di ngôn của Lương Huy Bích có chất liệu bằng mít, trạm từ thời Nguyễn được sơn son thiếp vàng có khổ rộng 0,87m, dài 1,24m được treo ở vị trí trang trọng ở chính diện do Đốc học Lương Kim Huyển lưu giữ cho khắc năm 1878 - thời Tự Đức, có đoạn: “Người ta ai đi học cũng cố hết sức mình do sức mình mà khá lên được. Buổi đầu ta dạy các con, các cháu khá nhiều điều, các con các cháu làm đúng lời ta thì còn đòi hỏi gì nữa...”
Mặt trước nhà thờ là tấm bia đá có kích thước cao 1,62m, rộng 0,98m, dày 0,11m do Nhữ Bá Sỹ quan đốc học Thanh Hoá soạn văn và cho dựng vào năm Tự Đức thứ 21 (năm 1868) nói về sự nghiệp công lao của Lương Huy Bích. Trong bài minh khắc bia có đoạn:
Châu Hoan có thầy Nguyễn Hạnh Am
Cùng với Thất Sơn phu tử
Châu Ái có ông Hoàng Trai
Lo gì không có nơi dạy dỗ.
Ông được ví như La Sơn phu tử Nguyễn Thiếp một nhà nho chờ thời giúp nước.
Bức đại tự “Lương Tướng Công Từ” rộng 0,61m, dài 1,61m, được làm từ thời Thành Thái, được treo ở chính điện, cùng 2 câu đối song song trước bàn thờ tổ:
Khởi gia kiếm mã huân danh Viễn
Thuỳ hậu quan thân đức trạch trường
Tạm dịch:
Kiếm mã khởi nghiệp công danh để mãi
Quan tước về sau đức vẫn dài.
Bên bàn thờ những người thành danh lập ngôn có bức đại tự khổ 0,51 m x 1,56m cũng làm cùng thời Thành Thái với 2 chữ “Tự Thành” với ý tự mình nỗ lực mới thành người. Ban thờ này có 4 câu đối treo song song trên đỉnh cột.
Câu 1:
Lễ nghĩa viễn tuân truyền thế bảo
Trữ tồn mỏi chí tất sinh tâm
Tạm dịch:
Điều lễ nghĩa con cháu giữ mãi
Còn mãi bền lòng đó là tâm
Câu 2:
Thư đăng kỳ án tinh thần cận
Học tại như tồn sự nghiệp trường
Tạm dịch:
Sách trên thư án là trí tuệ
Học từ khi nhỏ nên sự nghiệp về sau
Các hiện vật khác có trong từ đường:
Ban thờ phò mã tướng công Lương Trực:
1 Long đình rộng 0,91m, cao 1,26m, dày 0,91m.
Bài vị cao 0,51m, rộng 0,18m, dày 0,11m.
2 Mâm bồng: đường kính 0,42m, cao 0,32m.
4 Hộp quả: đường kính 0,15m, cao 0,22m.
2 Chân đèn: cao 0,43m, đường kính 0,19m.
2 ống hương: cao 0,11m, đường kính 0,29m.
Bát Hương: cao 0,11m, đường kính 0,29m.
Gậy Phò mã: dài 0,94m.
Ống đũa: đường kính 0,29m, cao 0,37m
Khám thờ, cao 0,71m, rộng 0,52m, dày 0,27m
Vừa qua tháng 10 – 2004, địa phương mới phát hiện được đỉnh của tấm bia đá, qua hoa văn, có thể bia được dựng của thời Lê Trung Hưng còn sót 1 vài chữ, khắc về tướng công Lương Trực, chắc rằng với tấm bia được phát hiện chúng ta sẽ biết nhiều điều có giá trị về ông.
Ban thờ Lương Huy Bích và những vị khác:
Bản phả ký họ Lương khổ 18cm x 23cm viết trên giấy gió
Tắc tải 1 cao 1,51m; dài 1,75m; rộng 1,05m.
Tắc tải 2 cao 1,24m; dài 1,49m; rộng 0,82m.
Long Khám cao 0,89m; dài 0,75m; rộng 0,75m.
2 chân nến cao 0,57m; đường kính 0,16m.
2 khay gỗ cao 0,17m; dài 0,47m; dày 0,18m.
2 giá chiêng cao 0,54m; rộng 0,29m.
Hòm sắc cao 0,13m; dài 0,45m; rộng 0,14m.
Ngai thờ rộng 0,36m; cao 0,76m; dài 0,48m.
6 bài vị cao 0,35m; dài 0,14m; rộng 0,14m.
01 bát hương đá cao 0,35m; dày 026m; rộng 0,12m.